This is default featured slide 1 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 2 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 3 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 4 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 5 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

Chủ Nhật, 30 tháng 4, 2017

Rong biển, hướng đi mới để phát triển thủy sản bền vững

Rong biển, hướng đi mới để phát triển thủy sản bền vững
VOV.VN - Tại các tỉnh duyên hải miền Trung, trồng và khai thác rong biển đã trở thành một nghề của nhiều ngư dân.


Việt Nam có vùng biển rộng lớn, khí hậu thuận lợi để phát triển nuôi trồng rong biển. Thế nhưng, diện tích nuôi trồng rong biển chỉ khoảng 10.000 ha, với sản lượng hơn 100.000 tấn tươi/năm, chủ yếu xuất thô ra nước ngoài.
Người dân miền Trung đi hái "lộc trời" (Ảnh: Nông nghiệp VN)
Tại các tỉnh duyên hải miền Trung, trồng và khai thác rong biển đã trở thành một nghề của nhiều ngư dân. Trong số các loại rong tại đây gồm rong câu, rong sụn, rong mơ thì rong mơ được khai thác từ tự nhiên, thương lái ra tận bãi thu mua. Mấy năm gần đây, khi nguồn lợi thủy sản ven bờ cạn kiệt, rong mơ ngày càng được giá. Tuy nhiên, vài năm gần đây, nguồn rong mơ cạn kiệt, giá lại giảm mạnh, khiến thu nhập của người khai thác rong mơ sụt giảm.
Ông Trần Văn Phát, ở xã Ninh Phước, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa cho biết: Khai thác rong mơ rất vất vả, phải chịu lạnh từ sáng tới chiều, phải phơi nắng, ... Càng ngày càng khó khăn trong khai thác rong biển vì ghe thuyền ngày càng đông.
Cùng với nguồn rong tự nhiên, một số ngư dân cũng đã trồng các loại rong như: rong câu, rong nho, rong mứt, rong sụn…Mặc dù có nhiều lợi thế về mặt nước, khí hậu nhưng bà con cũng không mấy mặn mà với việc trồng rong. Tại tỉnh Phú Yên, rong biển được đưa vào trồng từ 20 năm nay, diện tích trồng rong ở đây có lúc lên 300 ha nhưng hiện nay chỉ còn khoảng 25 ha.
Theo ông Nguyễn Tri Phương, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Phú Yên, nguyên nhân chính là đầu ra không ổn định, lợi nhuận thấp.
Việt Nam hiện có hơn 800 loài rong biển. Diện tích nuôi trồng rong biển ở Việt Nam trên 10.000 ha, sản lượng hơn 101.000 tấn/ năm. Phó Giáo sư Nguyễn Hữu Dũng, Chủ tịch Hiệp hội Nuôi biển Việt Nam cho rằng, tuy có nhiều tiềm năng nhưng lâu nay, ngành nông nghiệp chưa thực sự quan tâm đến việc trồng rong biển. Hiện nay, ngoài số lượng xuất thô theo đường tiểu ngạch, giá trị kinh tế thấp thì không có nhiều mặt hàng có giá trị gia tăng, không có nhiều doanh nghiệp mặn mà với rong biển.
Việc phát triển rong biển sẽ giải quyết nhiều vấn đề như: giảm được khí thải nhà kính, làm sạch môi trường, rong biển hấp thụ được các kim loại nặng. Tại các vùng nuôi, rong sẽ hấp thu được chất ô nhiễm, làm sạch môi trường, cung cấp  ô xy cho sinh vật.
Để phát triển rong biển thành một đối tượng nuôi thu hút nhiều người dân, theo các chuyên gia cần phải thực hiện một số giải pháp như: Khai thác hợp lý và có hiệu quả nguồn lợi rong biển tự nhiên đúng mùa vụ, đúng kỹ thuật, nâng cao sản lượng, chất lượng sản phẩm, bảo vệ nguồn lợi. Bổ sung các đối tượng trồng mới có giá trị, có chất lượng cao ngoài đối tượng truyền thống là rong câu. Tăng cường quá trình chế biến và sử dụng nguyên liệu rong biển, nghiên cứu ứng dụng keo rong biển vào các ngành công nghiệp, dịch vụ.
Ông Trần Đình Luân, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Thủy sản cho biết, sắp đến, cần phải đánh giá những vùng biển tiềm năng, phù hợp với các đối tượng, để từ đó nghiên cứu phát triển các loài bản địa thành sản phẩm hàng hóa, giá trị gia tăng cao.


Theo ông Luân, cần phải quan tâm đến công nghệ chế biến để làm các sản phẩm giá tăng. Song hành với đó là mở rộng các thị trường trong và ngoài nước, quảng bá các sản phẩm của Việt Nam làm được từ rong, trồng ở Việt Nam có giá trị, chất lượng cao./.
    • Bạn không nên bỏ qua bài:
      >> Sự khác biệt giữa trồng trọt bằng Phân vi sinh hữu cơ EMZ-USA và Phân hóa học
      >> Phân vi sinh EMZ-USA - phân bón công nghệ Mỹ
      >> Phân hữu cơ Rapid Hydro - phân bón cá công nghệ Mỹ
      >> Nano Bội thu 3D phòng và trị bệnh do Nấm,Vi khuẩn, Virus trên cây trồng
        • Phân bón hữu cơ vi sinh EMZ – USA đã được Bộ Nông Nghiệp Mỹ và VN cấp phép và khuyến khích sử dụng 

    Mọi Chi Tiết Xin Liên Hệ: 
    Tel : 0967 646 009 (Mr Nam) 

    • Phóng sự Phân vi sinh EMZ-USA trên kênh VTV2
    • Hãy like Facebook của EMZ -USA để được cập nhật những bài viết mới nhất  mỗi ngày

Một số vấn đề liên kết trong sản xuất nông nghiệp

Một số vấn đề liên kết trong sản xuất nông nghiệp

(VOH) – Trong thời gian qua, mô hình liên kết nhiều nhà trong lĩnh vực nông nghiệp được khuyến khích hình thành. Vấn đề cần thiết là xác định rõ vai trò của chính quyền địa phương, Hợp tác xã (HTX), doanh nghiệp, nông dân... trong mối liên kết này.



Hợp đồng hợp tác, liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp là hợp đồng được ký giữa người sản xuất và người tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp muộn nhất là từ đầu vụ sản xuất hoặc đầu chu kỳ nuôi, đầu chu kỳ khai thác sản phẩm nông nghiệp. Chính nhờ hợp đồng hợp tác, liên kết này, các thành phần sẽ tham gia vào.
Người sản xuất và người tiêu thụ trong mối liên kết này đóng vai trò chính. Người sản xuất ở đây có thể là nông dân, tổ hợp tác, HTX và doanh nghiệp. Và người tiêu thụ có thể là cá nhân thương lái, tổ hợp tác, HTX, doanh nghiệp, các siêu thị bán lẻ.
Điều quan trọng là trong một vùng sản xuất đó, tổ hợp tác hoặc HTX, doanh nghiệp hợp đồng với nhiều nông dân để nâng cao năng suất, sản lượng một loại nông sản, đáp ứng yêu cầu là một bên sản xuất, cung ứng nông sản. Bên sản xuất căn cứ giá cả thị trường, ước tính chi phí sản xuất, dự kiến giá thành... để đàm phán với bên tiêu thụ, bảo đảm cho sản xuất có lợi nhuận.
Tương tự như vậy, một tổ hợp tác, HTX, doanh nghiệp, siêu thị có thể hợp đồng với một hoặc nhiều thương lái hoặc tự mình đứng ra là một bên đối tác, tiêu thụ nông sản.
Bên tiêu thụ cũng hạch toán hiệu quả kinh doanh để ký kết hợp đồng với bên sản xuất và cùng nhau có lợi nhuận. Khi bên sản xuất và bên tiêu thụ cùng giữ chữ tín, cam kết, tôn trọng, chân thành vì hài hòa lợi ích chung, cùng nhau hưởng lợi... tất nhiên, mọi chuyện đều suôn sẻ, khó khăn sẽ vượt qua.
Còn ngược lại, sẽ xảy ra chuyện bẻ kèo như đã từng xảy ra. Ví dụ, trước đây, một số doanh nghiệp ký hợp đồng bao tiêu, cung ứng vật tư và tiêu thụ lúa với hàng ngàn nông dân qua một HTX, có thông qua chứng nhận của chính quyền cơ sở.
Khi vào vụ thu hoạch, nếu lúa trên thị trường có giá, nông dân hoặc HTX bẻ kèo bán lúa ra ngoài, doanh nghiệp không mua được lúa theo kế hoạch. Và cũng có truờng hợp một số doanh nghiệp bẻ kèo, không mua lúa do giá lúa trên thị trường sụt giảm. Chính vì lợi ích trước mắt mà các bên có thể làm mất uy tín trong mối liên kết đã tốn nhiều công sức xây dựng.
Về phía chính quyền địa phương trong mối liên kết, chưa nổi bật vai trò. Chính quyền địa phương là nơi có nhiều ảnh hưởng đến việc hình thành và hoạt động của các tổ hợp tác, HTX. Theo ngành nông nghiệp, bên cạnh một số tổ hợp tác, HTX sản xuất kinh doanh hiệu quả vẫn còn những đơn vị hoạt động yếu kém.
Một trong các nguyên nhân chính dẫn tới tình trạng tổ hợp tác, HTX chưa có sức bật và bước đột phá trong thời gian qua, chưa đáp ứng đòi hỏi mới của nền kinh tế và phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn là sự xung đột vai trò giữa các bên. Đó là ở một bộ phận khá lớn các địa phương có tổ chức HTX, chưa nhận thức đúng và làm đúng, làm tốt vai trò mình, trong khi có những sự can thiệp hoặc tác động chưa phù hợp tới các nguyên tắc, nguyên lý phát triển của hợp tác xã, liên kết nông dân.
Chính quyền địa phương thay vì hỗ trợ, thúc đẩy, tạo sự thông thoáng và tự chủ mà quản lý theo mệnh lệnh hành chính đã vô hình chung tạo nên những rào cản, những vòng kim cô cho sự phát triển của các HTX, làm chệch hướng phát triển theo các quy luật của kinh tế hợp tác và kinh tế thị trường.
Từ đó, dẫn tới các khó khăn mà tổ chức nông dân, HTX gặp phải trong phát triển chính mình, sự chồng chéo và kém hiệu quả trong thực thi nhiệm vụ, chính sách. Cũng như sự huy động hỗ trợ và nguồn lực thiếu, kém hiệu quả để phát triển các HTX.
Các HTX tiếp cận không tốt tới các chính sách cũng như phản hồi việc thực thi các chính sách trong thực tiễn tại các địa phương. Mặt khác, mặc dù có chứng nhận mối liên kết giữa bên sản xuất và bên tiêu thụ nhưng khi xảy ra tình trạng bẻ kèo, chính quyền địa phương cũng không thể xử lý nông dân lẫn doanh nghiệp vi phạm hợp đồng liên kết. Vì vậy, chính quyền cần tư vấn, hỗ trợ cho các bên để không xảy ra vi phạm hợp đồng.
Hiện nay, ngành nông nghiệp đưa ra nguyên tắc liên kết là tự nguyện, bình đẳng, cùng chịu trách nhiệm, cùng có lợi và chia sẻ rủi ro. Và thông qua hợp đồng hợp tác, liên kết giữa các đối tác tham gia liên kết hoặc đề án, dự án hỗ trợ nhằm phát triển cơ sở vật chất, hạ tầng, phát triển vùng nguyên liệu, cánh đồng lớn và chuỗi giá trị. Đây là chìa khóa để thực hiện mối liên kết ngày càng bền chặt, hiệu quả hơn.
Nguyễn Thắng
    • Bạn không nên bỏ qua bài:
      >> Sự khác biệt giữa trồng trọt bằng Phân vi sinh hữu cơ EMZ-USA và Phân hóa học
      >> Phân vi sinh EMZ-USA - phân bón công nghệ Mỹ
      >> Phân hữu cơ Rapid Hydro - phân bón cá công nghệ Mỹ
      >> Nano Bội thu 3D phòng và trị bệnh do Nấm,Vi khuẩn, Virus trên cây trồng
        • Phân bón hữu cơ vi sinh EMZ – USA đã được Bộ Nông Nghiệp Mỹ và VN cấp phép và khuyến khích sử dụng 

    Mọi Chi Tiết Xin Liên Hệ: 
    Tel : 0967 646 009 (Mr Nam) 

    • Phóng sự Phân vi sinh EMZ-USA trên kênh VTV2
    • Hãy like Facebook của EMZ -USA để được cập nhật những bài viết mới nhất  mỗi ngày

Nguy cơ thiếu nước sản xuất nông nghiệp

Nguy cơ thiếu nước sản xuất nông nghiệp
Quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa, gia tăng dân số... đang khiến nhu cầu về nước phục vụ sản xuất, sinh hoạt tăng đột biến trong khi nguồn nước sông, nước ngầm bị suy giảm mạnh. Dự kiến, nhiều vùng sản xuất nông nghiệp sẽ bị thiếu nước nghiêm trọng, ảnh hưởng đến năng suất cây trồng và đời sống dân sinh...
Lắp đặt trạm bơm dã chiến lấy nước phục vụ sản xuất nông nghiệp tại khu vực thị xã Sơn Tây. Ảnh: Bá Hoạt

Thách thức về xâm nhập mặn



Quá trình đô thị hóa khiến nhiều dòng sông bị ô nhiễm nặng, nạn chặt phá rừng trái phép... cũng ảnh hưởng đến điều tiết nguồn nước giữa các vùng và hạn chế việc mở rộng diện tích tưới tiêu nông nghiệp vùng thượng nguồn. Theo Bộ Tài nguyên và Môi trường, nhu cầu nước cho sản xuất và tiêu dùng của Việt Nam tăng nhanh: Năm 2000 khoảng 65 tỷ m3/năm; năm 2010 khoảng 72 tỷ m3/năm; dự báo năm 2020 là 80 tỷ m3/năm. Lượng mưa hàng năm khá cao nhưng phân bổ không đồng đều, nhiều dòng sông bị ô nhiễm do khai thác quá mức dẫn tới suy thoái, gây sức ép tới nguồn nước sạch.



Phó Giám đốc Viện Khoa học thủy lợi Việt Nam (Bộ NN& PTNT) Trần Đình Hòa cho biết: Biến đổi khí hậu, thiên tai lũ lụt, sạt lở đất, nắng nóng kéo dài, lượng mưa giảm... gây khô hạn, dẫn đến nguy cơ thiếu nước trầm trọng ở các địa phương. Dự báo, khu vực các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long có 828.000ha đất bị nhiễm mặn; vùng trung du và miền núi Bắc Bộ khoảng 2,3 triệu héc ta đất bị suy thoái, có nguy cơ trượt lở...



Theo dự báo, năm 2030, mực nước biển dâng cao, nước ta có khoảng 45% diện tích đất nguy cơ nhiễm mặn kéo theo năng suất lúa khu vực Nam Bộ giảm 9%, ảnh hưởng nghiêm trọng tới sản xuất nông nghiệp. Về vấn đề này, Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt (Bộ NN&PTNT) Nguyễn Như Cường cho biết: Tình trạng khô hạn, xâm nhập mặn, thiếu nước thời gian qua ảnh hưởng đến vụ mùa ở các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long và vụ đông xuân ở miền Bắc. Đối với các tỉnh nuôi trồng thủy sản, thiếu nước và nguồn nước bị ô nhiễm cũng khiến dịch bệnh phát sinh, gây hại hàng nghìn héc ta tôm nuôi...



Sử dụng nguồn nước hợp lý



Mới đây, tại “Hội thảo quốc tế về an ninh nguồn nước trong bối cảnh biến đổi khí hậu” do Viện Khoa học thủy lợi Việt Nam phối hợp với Hiệp hội Các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (VAFIE) tổ chức, Chủ tịch Hiệp hội VAFIE Nguyễn Mại cảnh báo: Việt Nam đang đối mặt với thách thức lớn về an ninh nguồn nước khi biến đổi khí hậu ngày càng phức tạp, ảnh hưởng tiêu cực tới đời sống dân sinh và hoạt động sản xuất. Để bảo đảm an ninh nguồn nước, rất cần hệ thống chính sách, pháp luật, chiến lược bảo vệ, khai thác, sử dụng tài nguyên nước hợp lý.



Đối với những vùng sản xuất nông nghiệp đang bị thiếu nước trầm trọng, Bộ NN&PTNT cần hướng dẫn cho người dân chuyển đổi cơ cấu cây trồng hợp lý. Các tỉnh, thành phố khuyến cáo, hướng dẫn người dân thực hiện phương pháp tưới tiên tiến cho lúa và cây trồng trên cạn như: Tưới nhỏ giọt, phun mưa…



Giám đốc Sở NN&PTNT tỉnh Hà Nam Nguyễn Quốc Đạt cho biết: Hiện nay, nguồn nước phục vụ sản xuất nông nghiệp có nguy cơ thiếu nghiêm trọng trong bối cảnh chất lượng nước ở các sông trên địa bàn đang ô nhiễm. Vì vậy, để bảo đảm sản xuất và chủ động dự trữ nguồn nước, các ngành chức năng cần thường xuyên giám sát, cảnh báo tình trạng thiếu nước ở khu vực có nguy cơ bị ảnh hưởng cao; rà soát, xác định vùng nguy cơ bị hạn hoặc thiếu nước để bố trí chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi cho phù hợp; đồng thời hướng dẫn bà con nông dân biện pháp tiết kiệm nước và có kế hoạch sử dụng nước phục vụ sản xuất, sinh hoạt phù hợp, hiệu quả...


    • Bạn không nên bỏ qua bài:
      >> Sự khác biệt giữa trồng trọt bằng Phân vi sinh hữu cơ EMZ-USA và Phân hóa học
      >> Phân vi sinh EMZ-USA - phân bón công nghệ Mỹ
      >> Phân hữu cơ Rapid Hydro - phân bón cá công nghệ Mỹ
      >> Nano Bội thu 3D phòng và trị bệnh do Nấm,Vi khuẩn, Virus trên cây trồng
        • Phân bón hữu cơ vi sinh EMZ – USA đã được Bộ Nông Nghiệp Mỹ và VN cấp phép và khuyến khích sử dụng 

    Mọi Chi Tiết Xin Liên Hệ: 
    Tel : 0967 646 009 (Mr Nam) 

    • Phóng sự Phân vi sinh EMZ-USA trên kênh VTV2
    • Hãy like Facebook của EMZ -USA để được cập nhật những bài viết mới nhất  mỗi ngày

Nông nghiệp 'nghiện' hóa chất độc hại

Nông nghiệp 'nghiện' hóa chất độc hại
Với hàng trăm ngàn tấn hóa chất bảo vệ thực vật (BVTV) được nhập về và sử dụng mỗi năm, nhiều chuyên gia cho rằng môi trường bị ô nhiễm, sức khỏe người dân bị ảnh hưởng.
Nhiều chuyên gia cho rằng việc người dân lạm dụng thuốc BVTV trong sản xuất nông nghiệp không chỉ gây ô nhiễm môi trường, đe dọa sức khỏe người dân, mà còn ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu - Ảnh: Quang Định

Vì sao tỉ lệ ung thư của VN ở vào hàng cao nhất thế giới? Thực phẩm bẩn đóng một vai trò lớn trong đó. Cần phải thay đổi cách quản lý hóa chất trong nông nghiệp, thay đổi quan điểm trong sản xuất nông nghiệp, chuyển từ sản xuất nhiều sang sản xuất sạch và giá trị cao
TS Nguyễn Đăng Nghĩa (giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và tư vấn nông nghiệp nhiệt đới)
Theo các chuyên gia, trong khi ngành nông nghiệp VN được Chính phủ hướng đến mục tiêu sản xuất sạch và an toàn nhằm phục vụ người tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, việc cho phép nhập khẩu và sử dụng hóa chất BVTV vô tội vạ thời gian qua cho thấy sự mâu thuẫn, thiếu nhất quán trong điều hành của các cơ quan quản lý.
Bán tràn lan, sử dụng 
vô tội vạ
Một ngày giữa tháng 4-2017, khi thực hiện chuyến khảo sát ở một vùng chuyên canh rau theo tiêu chuẩn sạch VietGAP tại Hóc Môn, TP.HCM, chúng tôi thật sự “choáng” khi chứng kiến cách thức chăm sóc vườn rau của nhiều nông dân.
Phần lớn ruộng rau, nhiều nhất là các loại rau cải, đều được dùng thuốc BVTV để trị các loại bệnh sâu ăn lá, bọ nhảy, sâu rẽ lá, rầy nâu..., dù trên bao bì các vỏ thuốc đều có ghi chữ “cực độc”, “độc cao”, “nguy hiểm”...
Anh Tình (Nam Định), người đang canh tác hơn 1ha rau dền và rau cải tại đây, cho biết với thời tiết nắng nóng và mưa bất thường thời gian gần đây, ruộng rau rất dễ phát sinh dịch bệnh, đặc biệt là rầy ăn lá.
Chỉ vào các bịch và lọ thuốc BVTV được treo lủng lẳng ở vách nhà, chủ yếu là Anvado và Oshin, anh Tình cho biết đây từng là những “biệt dược” trị các loại sâu bệnh cho rau, nhưng nay sâu, rầy cũng bị lờn thuốc này.
Chẳng hạn, trước đây một gói thuốc (khối lượng khoảng 6,5 gram) có thể pha với nước để phun cho 10 liếp rau, nhưng hiện nay phải tăng “đô” lên 2 gói cho 10 liếp.
“Người dân mình lạ lắm, thường chọn mua loại rau đẹp, tốt xanh mơn mởn, mà những loại đó là “uống thuốc” trừ sâu khiếp lắm. Còn nếu không được phun thuốc, rau có sâu lại bị người tiêu dùng chê” - anh Tình nói.
Tương tự, chị Nguyễn Thị Thơm (Hóc Môn) cho biết gia đình chị thường sử dụng loại thuốc Pesieu và Opsin để trừ sâu, chưa kể các loại thuốc diệt cỏ để “hạ gục” những cây cỏ khó nhổ.
Dù thừa nhận thuốc trừ sâu nào cũng độc, nhưng chị Thơm cho rằng “nếu dùng đúng liều lượng chắc cũng... không sao”.
“Rau thường xuyên bị sâu, rầy tấn công nên mọi người đều mua thuốc BVTV để dự trữ, khi thấy rau có dấu hiệu có sâu, rầy là phải mang bình thuốc ra xịt ngay” - chị Thơm nói thêm.
Trong vai người mua thuốc về trị sâu cho ruộng rau, chúng tôi đến một cửa hàng bán thuốc BVTV tại xã Xuân Thới Thượng (Hóc Môn) - nơi chuyên cung cấp thuốc cho hơn 200 nông dân trồng rau trên địa bàn, bà T. - chủ cửa hàng này - giới thiệu cửa hàng đang bán hơn 100 loại thuốc phòng chống sâu bệnh cho rau.
“Em nên mua loại Topsin hoặc Carbenzim là ấu trùng cũng chết chứ nói gì đến sâu” - bà T. quảng cáo.
Khi chúng tôi hỏi có loại thuốc dùng riêng cho rau trồng theo tiêu chuẩn VietGAP không, bà T. cho rằng loại nào cũng có thể dùng cho tất cả các loại rau, từ rau trồng thông thường đến VietGAP.
“Nếu trồng VietGAP, em nên pha nhiều nước hơn so với hướng dẫn và chịu khó tưới nước cho rau vào buổi sáng nhiều hơn. Đảm bảo thuốc sẽ phai nhanh, sâu cũng hết, rau cũng bán được” - bà T. khẳng định.
Nhiều hậu quả nhãn tiền
Trao đổi với chúng tôi, TS Nguyễn Đăng Nghĩa - giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và tư vấn nông nghiệp nhiệt đới - cho rằng ngành nông nghiệp VN đã có nhiều thành tích đáng ghi nhận trong những năm qua, nhưng cũng gây ra nhiều hậu quả to lớn.
Việc chạy đua theo năng suất và sản lượng trong một thời gian quá dài dẫn đến việc sử dụng phân bón và hóa chất BVTV tràn lan và mất kiểm soát. Kinh doanh, mua bán và sử dụng hóa chất BVTV tại VN rất dễ dàng và tùy tiện.
Hậu quả là chất lượng nông sản của VN giảm sút, bị nhiều quốc gia trả hàng hoặc cấm nhập khẩu. Trong khi đó, thực phẩm chính là một trong những nguyên nhân quan trọng khiến sức khỏe của người VN đang có vấn đề.
“Vì sao tỉ lệ ung thư của VN ở vào hàng cao nhất thế giới? Thực phẩm bẩn đóng một vai trò lớn trong đó. Cần phải thay đổi cách quản lý hóa chất trong nông nghiệp, thay đổi quan điểm trong sản xuất nông nghiệp, chuyển từ sản xuất nhiều sang sản xuất sạch và giá trị cao” - TS Nguyễn Đăng Nghĩa nói.
Giám đốc một công ty xuất khẩu trái cây tại TP.HCM cho rằng hiếm có quốc gia nào mà kinh doanh và sử dụng hóa chất BVTV thoải mái như ở VN. Ở những vùng chuyên canh nông nghiệp, mỗi làng xã đều có điểm bán thuốc BVTV.
Khi phát hiện bất cứ vấn đề gì với cây trồng của mình, người dân đều dễ dàng đến các cửa hàng này để mua về sử dụng mà không ai kiểm soát.
“Do việc lạm dụng hóa chất độc hại trong canh tác nông nghiệp, sức khỏe cây trồng giảm sút và sâu bệnh cũng bị lờn thuốc, người dân lại phải tăng thêm liều lượng mới có thể tiêu diệt được sâu bệnh hại hoa màu” - vị này nói.
Theo các chuyên gia nông nghiệp, để phát huy thế mạnh phát triển nông nghiệp để xuất khẩu, trước hết VN cần thường xuyên cập nhật các quy định về chất cấm sử dụng trong nông nghiệp, thực phẩm của các thị trường nhằm kịp thời đưa ra lệnh cấm sử dụng tại VN.
Đặc biệt, cơ quan quản lý cần có chính sách phát triển nông nghiệp sạch, nông nghiệp hữu cơ bằng cách hạn chế sử dụng hóa chất, tăng cường sử dụng phân bón hữu cơ và các chế phẩm sinh học.
GS.TS Nguyễn Thơ, phó chủ tịch Hội Bảo vệ thực vật VN, cũng cho rằng cần sớm có những định hướng cụ thể về chiến lược phát triển nông nghiệp, kèm theo đó là những biện pháp chế tài nghiêm khắc với kinh doanh hóa chất độc hại.
“Không phải những công ty sản xuất và kinh doanh hóa chất nông nghiệp không hiểu dùng nhiều hóa chất là tàn phá môi trường, dùng nhiều chế phẩm sinh học là tốt cho môi trường, họ biết hết nhưng họ không làm bởi đơn giản buôn bán hóa chất có lời nhanh và nhiều hơn” - GS.TS Nguyễn Thơ cho biết.
3 tháng, chi hơn 4.000 tỉ đồng 
nhập hóa chất BVTV
Theo Bộ NN&PTNT, chỉ trong ba tháng đầu năm nay VN đã chi hơn 4.000 tỉ đồng để nhập khẩu các loại hóa chất BVTV, tăng 7,5% so với cùng kỳ năm 2016, trong đó nguồn nhập khẩu chủ yếu là từ Trung Quốc (chiếm trên 50% tổng nhập khẩu).
Trong năm 2016, VN nhập khẩu 736 triệu USD thuốc trừ sâu và nguyên liệu, tương đương 100.000 tấn để sử dụng trong nước, một phần chế biến tái xuất khẩu.

    • Bạn không nên bỏ qua bài:
      >> Sự khác biệt giữa trồng trọt bằng Phân vi sinh hữu cơ EMZ-USA và Phân hóa học
      >> Phân vi sinh EMZ-USA - phân bón công nghệ Mỹ
      >> Phân hữu cơ Rapid Hydro - phân bón cá công nghệ Mỹ
      >> Nano Bội thu 3D phòng và trị bệnh do Nấm,Vi khuẩn, Virus trên cây trồng
        • Phân bón hữu cơ vi sinh EMZ – USA đã được Bộ Nông Nghiệp Mỹ và VN cấp phép và khuyến khích sử dụng 

    Mọi Chi Tiết Xin Liên Hệ: 
    Tel : 0967 646 009 (Mr Nam) 
    TS Nguyễn Đăng Nghĩa nói bệnh tuyến trùng trên cây trồng
    • Hãy like Facebook của EMZ -USA để được cập nhật những bài viết mới nhất  mỗi ngày