Nông sản thực phẩm sạch là nội hàm của cấu trúc kinh tế xanh, kinh tế cacbon thấp, là điều kiện để phát triển bền vững, ứng phó với biến đổi khí hậu.

Thông điệp có chất lượng tư tưởng
Lần đầu tiên kể từ ngày thành lập, Bộ NN-PTNT tổ chức hội
nghị về nông nghiệp hữu cơ (NNHC) đánh dấu bước phát triển mới của tư duy, phục
vụ mục tiêu tái cấu trúc nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới. Xây dựng nền
NNHC mang thông điệp có chất lượng tư tưởng vì nâng cao địa vị ngành nông nghiệp
trong vạch xuất phát mới.

|
Trang trại bò sữa hữu cơ của Vinamilk tại Đà Lạt. Ảnh:
Phạm Kha
|
Vai trò hàng đầu của ngành nông nghiệp là đảm bảo an ninh
lương thực thực phẩm nuôi 100 triệu dân và hơn chục triệu khách du lịch (bao gồm
cả xuất khẩu, thay thế nhập khẩu) và góp phần đảm bảo an ninh môi trường, an
ninh năng lượng quốc gia.
Thứ hai là sản xuất, chế biến nông sản thực phẩm (NSTP)
sạch (an toàn, sạch, hữu cơ) ngăn thực phẩm bẩn bằng phòng vệ thương mại và hàng
rào kỹ thuật. Đây cũng là một yêu cầu của việc xây dựng nông thôn mới, là nội
dung của tái cấu trúc nông nghiệp, là NSTP có giá trị thặng dư của sản phẩm nông
nghiệp Việt Nam với trong nước và thế giới. Với ý nghĩa đó Bộ NN-PTNT còn là "Bộ
Văn hóa thứ hai", "Bộ Quốc phòng thứ hai".
Thứ ba NSTP sạch là nội hàm của cấu trúc kinh tế xanh,
kinh tế cacbon thấp, là điều kiện để phát triển bền vững, ứng phó với biến đổi
khí hậu. Phương thức canh tác hữu cơ có độ bền cao, phổ sản xuất rộng, không
bùng phát dịch bệnh…
Thông điệp có chất lượng triết lý, đạo lý
Thứ nhất, phấn đấu “mâm cơm” của người Việt phải an lành
(thế giới gọi là “bàn ăn”). Hiện nay bất an nhất của nhân dân là ăn uống. Từ câu
hỏi “ăn bao nhiêu” bây giờ chuyển sang phải giải đáp “ăn uống gì”, “làm thế nào
ngăn bẩn”, “chi cho ăn uống hay chi cho y tế”.
Thứ hai, NNHC là phương thức sản xuất đa dạng, thuận với
tự nhiên, không có phế thải, tự tái tạo, tự tái chế (hàng chục triệu tấn phế phụ
phẩm). NNHC là nông nghiệp hiện đại hóa không bằng con đường hóa học hóa, khắc
phục mặt trái của công nghiệp hóa, là quy luật “phủ định của phủ định” nông
nghiệp truyền thống.
Thứ ba, NNHC phát huy lợi thế thật của nông nghiệp nhiệt
đới và du lịch ẩm thực, có cấu trúc kinh tế thật, có thị phần thị trường thật
(Bắc Âu, Bắc Á, giới trung lưu, thượng lưu đô thị, nông thôn…) và có hiệu quả
thật (chè hữu cơ Tây Côn Lĩnh một tôm + một tép giá 5 triệu đồng/kg, gạo hữu cơ
5-10USD/kg, tôm cá hữu cơ 5-10USD/kg…). Bằng NNHC chúng ta có thể trả lại “hai
quyền” cho nông dân: quyền trả giá (đầu vào) và định giá (đầu ra) của sản xuất
chế biến NSTP, khắc phục nền nông nghiệp giá rẻ.
Giải pháp phát triển
Một là, quy hoạch theo lợi thế thật ở “ba vùng ven”: ven
đồi núi, ven đô thị, ven biển. Vùng miền núi phía Bắc và Tây Nguyên có lợi thế
đất, không khí, nguồn nước… còn sạch. Ở đây NNHC phù hợp với ba mô hình sử dụng
đất phổ biến hiện nay là: trang trại, cho thuê và hợp tác liên kết theo quy
trình công nghệ tiên tiến (với doanh nghiệp, kinh tế hợp tác). Vùng ven đô thị
có lợi thế về thị trường, hạ tầng, dân trí, khoa học công nghệ. Sắp tới 50% dân
số sẽ sống ở đô thị và tầng lớp trung lưu, thượng lưu có thu nhập cao sẽ chiếm
khoảng 20-30% dân số ở đây. Vùng ven biển có lợi thế nước lợ, nước mặn, nuôi
trồng thủy sản và nông sản đặc sản chất lượng cao.
Ví dụ: ở ĐBSCL có 1,8 triệu ha đất trồng lúa, có thể quy
hoạch theo “3 lát cắt”: ngọt, lợ, mặn. Vùng ngọt 1 triệu ha lúa, thâm canh 2 vụ,
đảm bảo 15 triệu tấn thóc. Vùng lợ, 300.000 ha lúa đặc sản, lúa nếp, lúa chất
lượng cao… có giá trị 1.000USD/tấn gạo. Vùng mặn 200.000 ha tôm + lúa hữu cơ,
đạt 200 triệu/ha/năm. Đất còn lại chuyển thủy sản, cây ăn quả, chăn nuôi. Từ
khoảng 50-80 triệu/ha/năm đất cấy lúa hiện nay chuyển sang cấu trúc mới có thể
đạt 150 triệu/ha/năm và cao hơn nữa.
Ở vùng ĐBSH 600 nghìn ha đất lúa có thể quy hoạch “3 lát
cắt” là vùng vụ đông, vùng ven biển (mặn, lợ) và vùng cấy lúa mùa bằng giống
phản ứng ánh sáng có chất lượng cao nhờ trời cho chênh lệch nhiệt độ ngày đêm
cao (gió heo may).
Hiện nay chúng ta xuất khẩu 1 triệu tấn gạo nếp ở ĐBSCL
chất lượng thua nếp cái hoa vàng ở ĐBSH, có thể cải tạo giống nếp miền Bắc ở
miền Nam và mở rộng diện tích cấy lúa nếp ở miền Bắc thì hiệu quả còn cao hơn
nữa.
Hai là, xây dựng thể chế NNHC đồng bộ theo “3 tầng”. Tầng
đường lối là xây dựng Luật NNHC. Cùng với Luật Công nghệ cao, Luật NNHC sẽ là hệ
quản trị nông nghiệp linh hoạt gồm sản xuất và thương mại hữu cơ của nền nông
nghiệp nhiệt đới hiện đại Việt Nam.
Tầng kỹ thuật bao gồm: công nhận và sử dụng ngay các tiêu
chuẩn, quy chuẩn quốc tế về NNHC tại Việt Nam; tiếp biến và hoàn thiện công nghệ
NNHC Việt Nam phù hợp với các vùng sinh thái; áp dụng tiêu chuẩn sản phẩm theo
các thị trường đã ký kết (chiếu xạ, xông hơi nước nóng, loại bỏ hóa chất…). Phải
khẳng định lại NNHC không phải là trở về nông nghiệp truyền thống xưa mà là nông
nghiệp hiện đại hóa bằng sử dụng phân bón và thức ăn sinh học, vi sinh, nuôi
thiên địch, nuôi tảo, nuôi giun; ứng dụng công nghệ sinh học, công nghệ số; dùng
thuốc thảo dược, phân bón thức ăn thế hệ mới công nghệ cao không có kháng sinh,
hoóc môn chất kích thích sinh trưởng, chất độc hại…
Tầng chính sách bao gồm: khuyến khích sử dụng phân bón và
thức ăn hữu cơ, vi sinh, sinh học, thảo dược, phổ cập phương thức sản xuất an
toàn sinh học…; bảo vệ và bồi dưỡng độ phì nhiêu của đất, độ sạch của nước,
không khí; truyền tải thông điệp thay đổi tập quán, thói quen sản xuất cũ bằng
phương thức sản xuất theo tiêu chuẩn, theo nông nghiệp hợp đồng; nhấn mạnh “cấu
trúc tinh thần” của chính sách là phát huy mặt tốt của nông dân, hạn chế mặt
nhược điểm, xây dựng văn hóa thẩm mỹ của nông thôn mới. Chính sách NNHC phải phù
hợp với các sản phẩm ở các vùng khác nhau (chứ không dùng một loại lưới bắt tất
cả các loại cá); xây dựng chính sách “chuỗi” nhưng quan trọng nhất là “đầu” sản
xuất: xây dựng mô hình “cùng phát triển” – 2 công nghệ (hữu cơ/cao) 2 sản phẩm
(đặc sản/an toàn) 2 lực lượng (doanh nghiệp, hợp tác xã/R&D) 2 ngành (nông
nghiệp/du lịch ẩm thực); “đầu” thương mại là cửa hàng, thuế, tín dụng, quỹ bình
ổn giá NNHC…
Ba là, tổ chức thực hiện theo công thức: kết hợp 2 gien
(khoa học + doanh nhân) + men (quản lý). Sự kết hợp 2 gien theo phương thức mới
hữu cơ, hữu tính của “lòng đỏ + lòng trắng” của quả trứng sẽ có hiệu quả cao hơn
sự kết hợp kiểu vô tính, lai ghép vô cơ hiệu quả thấp hiện nay. Vai trò nhà quản
lý là xây dựng chính sách sắc sảo, xây dựng quyền lực về sản xuất và thương mại
của một số doanh nghiệp đầu đàn; là chất xúc tác và truyền cảm hứng phát triển
cho hàng triệu nông dân.
TS LÊ HƯNG QUỐC
-
Bạn không nên bỏ qua bài:>> Toàn cảnh nông nghiệp hữu cơ Việt Nam>> Phân vi sinh EMZ-USA - phân bón công nghệ Mỹ>> Phân hữu cơ Rapid Hydro - phân bón cá công nghệ Mỹ>> Nano Bội thu 3D phòng và trị bệnh do Nấm,Vi khuẩn, Virus trên cây trồng
-
-
-
Phân bón hữu cơ vi sinh EMZ – USA đã được Bộ Nông Nghiệp Mỹ và VN cấp phép và khuyến khích sử dụng
-
-
-
-
Phóng sự Phân vi sinh EMZ-USA trên kênh VTV2
- Hãy like Facebook của EMZ -USA để được cập nhật những bài viết mới nhất mỗi ngày
Mọi
Chi Tiết Xin Liên Hệ:
Tel
: 0967 646
009 (Mr
Nam)






0 nhận xét:
Đăng nhận xét